Công ty luật TNHH Sao Sáng

luatsaosang@gmail.com 0936653636

Bị đơn cố tình giấu địa chỉ nơi cư trú khi giải quyết tranh chấp ly hôn sẽ xử lý như thê nào?

15:14 CH
Thứ Sáu 09/09/2022
 680

Trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn, nhiều trường hợp nguyên đơn hoặc tòa án liên lạc được với bị đơn qua điện thoại nhưng vì nhiều lý do khác nhau (như không muốn ly hôn, gây khó khăn cho nguyên đơn…) mà bị đơn giấu không cho nguyên đơn hoặc tòa án biết địa chỉ nơi họ đang sinh sống

     1. Vụ án ly hôn là gì?

Vụ án dân sự là các tranh chấp xảy ra giữa các đương sự mà theo quy định thì cá nhân, cơ quan, tổ chức tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Thông thường ta có thể hiểu vụ án ly hôn là khi có tranh chấp giữa vợ và chồng xảy ra trong quá trình giải quyết ly hôn; một trong hai bên vợ hoặc chồng không đồng ý ly hôn mà cần Tòa án giải quyết thì lúc này ly hôn được gọi là vụ án.

     2. Bị đơn cố tình giấu địa chỉ trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn

Một thực tế đang xảy ra là nhiều cặp vợ chồng do mâu thuẫn trong đời sống vì vậy đã quyết định sống ly thân nhiều năm không gặp mặt nhau hoặc một bên vợ hoặc chồng đi làm thuê ở các tỉnh, thành phố lớn mà không cho vợ hoặc chồng biết địa chỉ. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tống đạt được thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập lên làm việc,... cho bị đơn do bị đơn không còn cư trú tại địa chỉ nguyên đơn ghi trong đơn khởi kiện.

Nhiều trường hợp, nguyên đơn hoặc tòa án liên lạc được với bị đơn qua điện thoại nhưng vì nhiều lý do khác nhau (như không muốn ly hôn, gây khó khăn cho nguyên đơn…) mà bị đơn không cho nguyên đơn hoặc tòa án biết địa chỉ nơi họ đang sinh sống, làm việc. Hoặc cũng có trường hợp người thân của bị đơn biết số điện thoại hoặc địa chỉ mới của bị đơn nhưng không cung cấp cho nguyên đơn hoặc tòa án biết.

     3. Quan điểm về giải quyết vụ án ly hôn khi bị đơn cố tình giấu địa chỉ

      3.1 Tòa án ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án

Theo Công văn 5814/VKSTC-V14 ngày 25/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải đáp vướng mắc hướng dẫn tại mục 7 như sau:

“Khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05 tháng 5 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án, quy định: … c) Trường hợp không thuộc điểm a, b khoản 2 Điều này mà Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng nguyên đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.”

Khoản 4 Điều 6 Nghị quyết nêu trên quy định: “Trường hợp vụ án bị đình chỉ giải quyết theo hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này thì theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 192 BLTTDS 2015, người khởi kiện có quyền khởi kiện lại vụ án đó khi cung cấp được đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện…”

Như vậy, nếu vụ án ly hôn thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017 ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán TATC thì Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án là đúng. Người khởi kiện có quyền khởi kiện lại vụ án khi cung cấp được đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc của người bị kiện”.

Theo hướng dẫn trên thì Tòa án sẽ chỉ đình chỉ giải quyết vụ án nhưng việc đình chỉ này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền của nguyên đơn vì trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, không hợp tác giải quyết thì nguyên đơn sẽ không bao giờ khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn được.

      3.2 Tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung

Tại các khoản 2, 3 Điều 5 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP có hướng dẫn như sau: “Người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ nơi cư trú, làm việc, hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho tòa án theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này tại thời điểm nộp đơn khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”.

Khoản 1 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP quy định: “Trường hợp trong đơn khởi kiện người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ người bị kiện… theo hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết này thì Tòa án phải nhận đơn khởi kiện và xem xét thụ lý vụ án theo thủ tục chung”. Điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017 quy định: “… Trường hợp người bị kiện… thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn”.

Như vậy, trường hợp này phải được coi là ghi đúng địa chỉ, Tòa án sẽ giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ vụ án như hướng dẫn.

Trong cả hai trường hợp nêu trên, khi giải quyết đều không cần thông qua thủ tục giải quyết việc dân sự là yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú và yêu cầu tuyên bố một người mất tích. Bởi lẽ, việc đăng ký kết hôn là một trong những sự kiện pháp lý nhằm phát sinh quan hệ hôn nhân giữa hai cá nhân được cơ quan có thẩm quyền xác lập, khi một trong các bên thay đổi nơi cư trú nhưng không báo với chính quyền địa phương là cơ quan quản lý hoặc với người còn lại thì cũng được xem là cố tình giấu địa chỉ, tương tự như cách hiểu tại điểm a, khoản 2, Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP. Tuy nhiên, do chưa có quy định hướng dẫn riêng về vấn đề này mà chỉ có những quy định mang tính chất chung chung, nên việc áp dụng cách hiểu như trên là chưa thỏa đáng. Điều này đã gây ra nhiều khó khăn trong thực tiễn giải quyết vụ án.

Do đó, thiết nghĩ cần có quy định riêng hướng dẫn đối với việc giải quyết vụ án tranh chấp ly hôn khi người bị kiện cố tình giấu địa chỉ. Cụ thể, cần bổ sung quy định theo hướng Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo thủ tục chung mà không cần đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn. Bởi lẽ, nếu Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án vì không tống đạt được cho bị đơn, đồng thời hướng dẫn nguyên đơn thực hiện các làm thủ tục yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú và yêu cầu tuyên bố một người mất tích theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì sẽ gây mất thời gian, công sức, tiền bạc của người khởi kiện. Do vậy, việc bổ sung quy định hướng dẫn như trên không những góp phần đảm bảo cho việc xét xử đúng pháp luật, thống nhất mà còn bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Trên đây là nội dung Công ty Luật TNHH Sao Sáng gửi đến quý bạn đọc quy định của pháp luật đối với việc bị đơn giấu địa chỉ nơi cư trú trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn. Nếu có vấn đề còn thắc mắc cần được hỗ trợ giải đáp vui lòng liên hệ với chúng tôi qua Email: luatsaosang@gmail.com hoặc hotline: 0936.65.36.36 – 0972.17.27.57 để được tư vấn và hỗ trợ nhanh nhất.

Bài viết cùng chuyên mục

Bản đồ

Luật sư sẽ liên hệ lại với bạn ngay lập tức khi nhận được lịch

Danh mục

Tin mới

. .