KHÔNG ĐỦ TÀI SẢN ĐỂ THỰC HIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ XỬ LÝ NHƯ THẾ NÀO?
Theo quy định pháp luật hiện hành, trường hợp người bị thi hành án dân sự mà không tự nguyện thi hành án thì sẽ bị cưỡng chế thi hành án. Vậy, không đủ tài sản để thực hiện thi hành án dân sự xử lý như thế nào? Bài viết dưới đây sẽ giúp quý bạn đọc giải đáp thắc mắc đó:
1. Căn cứ xác định việc chưa có điều kiện thi hành án
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành khi thuộc một trong các trường hợp sau:
Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc có thu nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án, người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng và không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản theo quy định của pháp luật không được kê biên, xử lý để thi hành án.
Trong trường hợp người phải thực hiện hành vi thực hiện án không có thu nhập, hoặc chỉ có thu nhập đủ để đảm bảo cuộc sống tối thiểu của bản thân và người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng, hoặc không có tài sản để thực hiện hành vi thực hiện án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thực hiện án, hoặc tài sản không được kê biên, xử lý để thực hiện án theo quy định của pháp luật, việc xác định có điều kiện thực hiện án được thực hiện như sau:
Thu nhập của người phải thi hành án: Thu nhập của người phải thi hành án bao gồm các khoản tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động và các khoản thu nhập hợp pháp khác.
Người phải thi hành án không có thu nhập: Trường hợp người phải thi hành án không có thu nhập là khi họ không thu được bất kỳ loại thu nhập nào từ các nguồn trên. Nếu người phải thi hành án có thu nhập nhưng chỉ đảm bảo cuộc sống tối thiểu của bản thân và người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng, thì mức sinh hoạt tối thiểu của họ được xác định dựa trên chuẩn hộ nghèo áp dụng tại địa phương cư trú hoặc theo quy định của Thủ tướng Chính phủ nếu địa phương chưa có quy định cụ thể.
Tài sản của người phải thi hành án: Nếu người phải thi hành án không có tài sản, hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thực hiện án, thì có cơ sở để xác định rằng họ không có điều kiện thực hiện án.
Tài sản không được kê biên hoặc đã được cầm cố, thế chấp trước khi có bản án: Trong trường hợp tài sản của người phải thi hành án không được kê biên theo quy định của pháp luật hoặc đã được cầm cố, thế chấp hợp pháp trước khi có bản án, và giá trị tài sản đó nhỏ hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thực hiện án, thì cũng có căn cứ để xác định rằng họ không có điều kiện thực hiện án.
Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được; phải trả giấy tờ nhưng giấy tờ không thể thu hồi và cũng không thể cấp lại được mà đương sự không có thỏa thuận khác.
Theo khoản 2 của Điều 113 trong Bộ luật Dân sự năm 2015, vật đặc định được xác định là vật có khả năng phân biệt với các vật khác thông qua các đặc điểm riêng biệt như ký hiệu, hình dáng, màu sắc, chất liệu, đặc tính, hoặc vị trí. Khi thực hiện nghĩa vụ chuyển giao vật đặc định, người thực hiện nghĩa vụ phải đảm bảo giao đúng vật đó.
Trong trường hợp quy định tại điểm b của khoản 1 của Điều 44a trong Luật Thi hành án dân sự 2008, đối tượng thi hành án được xác định là người phải trả lại vật đặc định nhưng vật đã không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được, hoặc phải trả lại giấy tờ nhưng giấy tờ không thể thu hồi và cũng không thể cấp lại được.
Điều này đặt ra vấn đề về việc xử lý các trường hợp thi hành án khi vật đặc định đã không còn. Trong trường hợp này, người được thi hành án có thể không thể thi hành đối với các khoản này. Do đó, việc xếp các trường hợp này vào diện chưa có điều kiện thi hành án chưa hoàn toàn phù hợp.
Mặt khác, cơ quan thi hành án vẫn phải tiếp tục giải quyết các vấn đề liên quan đến việc thi hành án từ năm này qua năm khác (do việc chưa có điều kiện tiếp tục được chuyển kỳ sau). Đa số quan điểm đề xuất bỏ đi trường hợp chưa có điều kiện thi hành án khi vật đặc định đã không còn. Do đó, cần nghiên cứu và đề xuất các giải pháp xử lý dứt điểm đối với các trường hợp này.
Chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án, người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng
Có thể thấy, dù sử dụng cùng một căn cứ pháp lý "chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án", nhưng điểm c của khoản 1 Điều 44a trong Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định việc ra quyết định chưa có điều kiện thi hành án, trong khi điểm b của khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định việc ra quyết định hoãn thi hành án.
Sự khác biệt giữa việc hoãn thi hành án và việc chưa có điều kiện thi hành án là rất rõ ràng và có hệ quả pháp lý khác nhau. Trong một số trường hợp như hoãn theo yêu cầu của đương sự hoặc hoãn theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị, thì thời hạn hoãn thi hành án được xác định rõ ràng. Tuy nhiên, đối với căn cứ "chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án", thì việc ấn định thời gian hoãn trở nên khó khăn.
Do đó, nếu cơ quan thi hành án dân sự áp dụng căn cứ này để ra quyết định hoãn thi hành án là chưa phù hợp và có thể dẫn đến nhiều vấn đề trong việc thực thi.
2. Không đủ tài sản để thực hiện thi hành án dân sự xử lý như thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 44 Luật Thi hành án dân sự 2008, được sửa đổi bởi khoản 17 Điều 1 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi 2014 quy định về xác minh điều kiện thi hành án như sau:
Trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án thì ít nhất 06 tháng một lần, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án; trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án là người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải thi hành án thì thời hạn xác minh ít nhất 01 năm một lần. Sau hai lần xác minh mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho người được thi hành án về kết quả xác minh. Việc xác minh lại được tiến hành khi có thông tin mới về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
Trường hợp Chấp hành viên thấy cần thiết hoặc kết quả xác minh của Chấp hành viên và người được thi hành án khác nhau hoặc có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thì phải xác minh lại. Việc xác minh lại được tiến hành trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kết quả xác minh do đương sự cung cấp hoặc nhận được kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân.
Do đó, trong trường hợp không có đủ tài sản để thực hiện thi hành án dân sự, ít nhất mỗi 06 tháng một lần, Chấp hành viên phải tiến hành xác minh điều kiện thi hành án.
Đối với trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án, định kỳ xác minh phải được thực hiện theo các quy định sau đây:
- Người đang chấp hành hình phạt tù với thời gian còn lại từ 02 năm trở lên.
- Trường hợp không xác định được địa chỉ hoặc nơi cư trú mới của người phải thi hành án.
Thời hạn xác minh ít nhất là mỗi 01 năm một lần. Sau khi đã tiến hành xác minh hai lần và người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho người được thi hành án biết về kết quả xác minh.
Việc xác minh lại sẽ được tiến hành khi có thông tin mới về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
3. Quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự
Căn cứ theo quy định Điều 30 Luật Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi 2014) quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự như sau:
- Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
- Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi 2014) thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án.
- Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng, ý kiến tư vấn của chúng tôi sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề mà bạn đang quan tâm. Trên từng vấn đề cụ thể, nếu bạn cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn của chúng tôi, xin hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ email: luatsaosang@gmail.com hoặc qua Tổng đài tư vấn: 0936.65.3636 – 0972.17.27.57 để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Sao Sáng. Trân trọng cảm ơn!