CHỒNG NGOẠI TÌNH CÓ PHẢI BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CHO VỢ HAY KHÔNG?
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, vấn đề ngoại tình bị pháp luật ngăn cấm nhưng không có quy định nào về việc một bên đòi bên kia bồi thường thiệt hại về tinh thần do hành vi ngoại tình gây ra.
Tuy nhiên, trên thực tế đã có tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện với nội dung vụ án yêu cầu người vợ bồi thường khi ngoại tình.
Tòa án đã nhận định rằng vì người vợ đã vi phạm khoản 1 điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Việc ngoại tình của người vợ đã xâm phạm đến danh dự, uy tín của người chồng nên đã gây ra tổn thất về tinh thần cho người chồng.
Về chi phí nuôi dưỡng con, tòa nhận định rằng: Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, mọi việc làm đều có mục đích. Người chồng nuôi dưỡng chăm sóc người con là để được hưởng lợi về mặt tình cảm và trông cậy lúc tuổi già. Nhưng mục đích ấy đã không đạt được. Vì vậy, người gây thiệt hại (tức người vợ) phải có trách nhiệm bồi thường là phù hợp với quy định chung của pháp luật và vì lẽ công bằng. Về căn cứ bồi thường thì tòa căn cứ vào khoản 1 điều 584 Bộ luật Dân sự.
Như vậy, người chồng có thể yêu cầu bồi thường tổn thất cả về vật chất lẫn tinh thần trong việc nuôi dưỡng và chăm sóc con của vợ (và ngược lại, người vợ cũng có thể yêu cầu chồng bồi thường tổn thất cả về vật chất lẫn tinh thần khi người chồng ngoại tình). Bởi tổn thất này có thể chứng minh và thiệt hại là có thật.
Giải quyết vấn đề ngoại tình, pháp luật chưa có quy định rõ ràng, cụ thể về vẫn đề này mà xử lý thông qua tác động của các cơ quan đoàn thể, tổ chức xã hội, họ hàng. Trong trường hợp sự khuyên can đó không hiệu quả, bên kia vẫn tiếp tục có hành vi chung sống như vợ chồng với người khác thì họ sẽ bị xử phạt hành chính căn cứ vào khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP thì hành vi ngoại tình với người đã có gia đình bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.. Nếu tiếp tục tái phạm, họ có thể bị công an khởi tố xử lý hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng.
Về vấn đề này, Căn cứ theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định:
“2. Cấm các hành vi sau đây:
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”;
Bên cạnh đó Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng như sau:
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
Ngoài ra, Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn áp dụng Chương XV “Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” của Bộ luật Hình sự do Bộ Tư pháp - Bộ Công an - TANDTC - VKSNDTC ban hành, thì hành vi “chung sống như vợ chồng”: Là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...
Tuy nhiên, chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp:
- Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng, như làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, v.v...
- Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê trong Điều 185 BLHS, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính (theo quy định tại Điều 11 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính nếu qua 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm thì được coi như chưa bị xử phạt vi phạm hành chính), mà lại thực hiện chính hành vi đó, hoặc thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong điều luật.
Trong trường hợp đã có quyết định của Tòa án tuyên hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo Điều 182 Bộ luật hình sự 2015
Như vậy, trường hợp hành vi của người chồng ngoại tình nếu đáp ứng đủ điều kiện theo quy định nêu trên và điều kiện về cấu thành tội phạm theo Luật Hình sự thì hành vi đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 182 Bộ luật hình sự 2015.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng, ý kiến tư vấn của chúng tôi sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề mà bạn đang quan tâm. Nếu bạn cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn của chúng tôi, xin hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ email luatsaosang@gmail.com hoặc qua hotline: 0936.65.36.36 - 0972.17.27.57 để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Sao Sáng. Trân trọng cảm ơn!