Công ty luật TNHH Sao Sáng

luatsaosang@gmail.com 0936653636

Hiểu thế nào về cố tình thực hiện tội phạm đến cùng ?

10:43 SA
Thứ Hai 22/12/2025
 10

Tình tiết tăng nặng , giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ để Tòa án quyết định mức phạt cụ thể tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2025 quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như sau:

“1. Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

a) Phạm tội có tổ chức;

b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;

d) Phạm tội có tính chất côn đồ;

đ) Phạm tội vì động cơ đê hèn;

e) Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;

g) Phạm tội 02 lần trở lên;

…………………………………………………………………………………”

Khái niệm: Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng, là quyết tâm thực hiện ý định phạm tội của mình, mặc dù có sự can ngăn của người khác hoặc có những cản trở khác trong quá trình thực hiện tội phạm. Thể hiện sự quyết tâm phạm tội cao, thực hiện bằng được tội phạm.

Thứ nhất, về ý thức trong hành vi cố tình thực hiện tội phạm đến cùng

 “Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng” được hiểu là trường hợp người phạm tội có ý chí quyết tâm thực hiện hành vi phạm tội nhằm đạt được mục đích đã định, mặc dù trong quá trình thực hiện có sự can ngăn, ngăn chặn của người khác hoặc gặp phải những trở ngại nhất định. Trong trường hợp này, dù người phạm tội chưa đạt được mục đích hoặc chưa gây ra hậu quả, họ vẫn phải chịu trách nhiệm về tình tiết tăng nặng này.

Trong tình tiết cố tình thực hiện tội phạm đến cùng, ý thức của người phạm tội đóng vai trò quyết định. Ý thức đó có thể được hình thành trước, trong hoặc sau khi bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội, nhưng điểm chung là người phạm tội quyết tâm thực hiện hành vi đến cùng bằng mọi cách, bất chấp các yếu tố cản trở và khó khăn phát sinh trong quá trình phạm tội. Đây là điều kiện cần để xác định một hành vi có được coi là cố tình thực hiện tội phạm đến cùng hay không.

Thứ hai, về mức độ và cường độ tấn công

Nếu ý thức quyết tâm là điều kiện cần, thì mức độ tấn công và cường độ thực hiện hành vi phạm tội được xem là điều kiện đủ để làm rõ hành vi đó có thuộc trường hợp cố tình thực hiện tội phạm đến cùng hay không.

Yếu tố này thể hiện sự biểu hiện ra bên ngoài của ý thức phạm tội, cho thấy mức độ quyết liệt trong hành vi của người phạm tội. Trên thực tế, các hành vi cố tình thực hiện tội phạm đến cùng thường có mức độ tấn công mạnh mẽ, liên tục và quyết liệt hơn, nhằm vượt qua sự chống trả, can thiệp hoặc các khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, tiêu chí này chủ yếu được áp dụng đối với một số nhóm tội phạm như các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc các tội chiếm đoạt tài sản, nơi hành vi phạm tội thường gặp phải sự cản trở trực tiếp.

Thứ ba, trường hợp thực hiện hành vi phạm tội khi không có sự cản trở

Trong thực tiễn, có những trường hợp người phạm tội có ý chí thực hiện hành vi phạm tội, nhưng không được xem là cố tình thực hiện tội phạm đến cùng do không tồn tại sự cản trở đáng kể nào trong quá trình thực hiện. Điều này thường thể hiện ở việc người phạm tội tiến hành hành vi một cách âm thầm, kéo dài, không gặp phải sự chống đối hay ngăn chặn, cho đến khi hậu quả xảy ra.

Trong những trường hợp như vậy, mặc dù người phạm tội vẫn có lỗi cố ý, nhưng chưa đủ căn cứ để xác định tình tiết cố tình thực hiện tội phạm đến cùng, do thiếu yếu tố vượt qua sự cản trở hoặc khó khăn trong quá trình phạm tội.

Thứ tư, Không xem xét việc bị cáo có thực hiện được mục đích hay không

Đây là tình tiết mang yếu tố định tính tức là dựa trên việc đánh giá tâm lý tội phạm kết hợp với quá trình thực hiện hành vi phạm tội nên mục đích không phải là yếu tố bắt buộc.

Ví dụ 1: Về mức độ, cường độ tấn công thể hiện sự cố tình đến cùng

C có ý định chiếm đoạt tài sản của D. Khi bị D phát hiện và chống trả quyết liệt, C không từ bỏ hành vi mà tiếp tục sử dụng các biện pháp mạnh nhằm khống chế D để thực hiện việc chiếm đoạt tài sản. Chỉ đến khi có sự can thiệp từ bên ngoài, hành vi của C mới bị chấm dứt.

Hành vi trên thể hiện tính quyết liệt, liên tục trong quá trình thực hiện tội phạm, phản ánh rõ sự cố tình thực hiện tội phạm đến cùng của C, bất chấp những cản trở phát sinh.

Ví dụ 2: Về trường hợp không được coi là cố tình thực hiện tội phạm đến cùng

E lợi dụng thời điểm không có người trông coi để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Toàn bộ quá trình phạm tội diễn ra một cách âm thầm, không gặp phải sự ngăn cản hay chống đối nào. Hành vi chỉ bị phát hiện sau khi hậu quả đã xảy ra.

Trong trường hợp này, mặc dù E có lỗi cố ý và hành vi phạm tội đã hoàn thành, nhưng không đủ căn cứ để xác định tình tiết cố tình thực hiện tội phạm đến cùng, do không tồn tại yếu tố vượt qua sự cản trở trong quá trình thực hiện tội phạm.

Trên đây là toàn bộ tư vấn của chúng tôi, hy vọng rằng, những ý kiến tư vấn này, sẽ giúp làm sáng tỏ vấn đề mà Quý vị đang quan tâm. Để có thể làm rõ hơn và chi tiết từng vấn đề nêu trên cũng như các vấn đề pháp lý mà Quý vị đang cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn. Xin vui lòng liên hệ ngay cho chúng tôi theo địa chỉ email: luatsaosang@gmail.com hoặc qua Tổng đài tư vấn: 0936.65.3636 - 0972.17.27.57 để nhận được sự tư vấn, giải đáp và hỗ trợ từ Luật Sao Sáng. Trân trọng cảm ơn!

Bài viết cùng chuyên mục

Bản đồ

Luật sư sẽ liên hệ lại với bạn ngay lập tức khi nhận được lịch

Danh mục

Tin mới

. .