Thế nào là phòng vệ chính đáng?
Hiện nay, có nhiều vụ án cố ý gây thương tích, giết người mà nguyên nhân xuất phát là từ hành vi tự vệ của cá nhân trước sự tấn công của người khác. Vậy, trong trường hợp nào hành vi tự vệ của cá nhân có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Để xác định trong trường hợp nào hành vi cố ý gây thương tích, giết người để tự vệ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trước hết chúng ta phải hiểu phòng vệ chính đáng là gì?
-
Khái niệm
Theo khoản 1 Điều 22 Bộ luật hình sự (BLHS) 2015 quy định:
“Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.”
Từ quy định trên, có thể nói phòng vệ chính đáng là hành vi phòng vệ, chống trả sự xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của người có hành vi phòng vệ hoặc của người khác.
Mục đích của phòng vệ chính đáng là bảo vệ lợi ích hợp pháp nên mặc dù người có hành vi phòng vệ gây nên thiệt hại cho người có hành vi xâm hại nhưng không bị coi là tội phạm.
Phòng vệ chính đáng là quyền của công dân. Nhà nước quy định cho công dân được thực hiện quyền phòng vệ để bảo vệ lợi ích hợp pháp khi có hành vi xâm hại các lợi ích hợp pháp. Quyền phòng vệ chính đáng được thực hiện cả khi người phòng vệ có khả năng bảo vệ lợi ích hợp pháp bằng các biện pháp khác.
Phòng vệ chính đáng là quyền nhưng không phải là nghĩa vụ của công dân. Do vậy, khi phát sinh sự xâm hại đến các lợi ích hợp pháp, công dân có quyền lựa chọn cách ứng xử của mình: Thực hiện quyền phòng vệ chính đáng để chống trả lại người có hành vi xâm hại, bảo vệ các lợi ích hợp pháp hoặc từ chối không thực hiện quyền này. Trong trường hợp họ không thực hiện biện pháp chống trả thì họ cũng không phải chịu trách nhiệm pháp lý. Việc thực hiện hành vi chống trả người có hành vi xâm hại để bảo vệ lợi ích hợp pháp chỉ là nghĩa vụ đạo đức của công dân. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, do tính chất nghề nghiệp hoặc do trách nhiệm được giao mà một số người phải có nghĩa vụ pháp lý thực hiện nghĩa vụ chống trả lại hành vi xâm hại bảo vệ lợi ích hợp pháp. Ví dụ: cán bộ công an làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự an toàn xã hội đường phố, nhân viên bảo vệ… thì phải có nghĩa vụ pháp lý chống trả hành vi xâm hại, bảo vệ lợi ích hợp pháp, nếu không thực hiện nghĩa vụ này, họ phải chịu trách nhiệm pháp lý.
Việc quy định chế định phòng vệ chính đáng trong luật hình sự, thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta nhằm động viên, khuyến khích nhân dân tham gia vào việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
-
Điều kiện của phòng vệ chính đáng
Thứ nhất, điều kiện thuộc về hành vi xâm hại (hành vi tấn công)
Để có cơ sở thực hiện quyền phòng vệ của một người thì phải có hành vi xâm hại của người khác đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân. Hành vi xâm hại phải rõ ràng có tính nguy hiểm cho xã hội.
Hành vi xâm hại có thể là hành vi phạm tội, nghĩa là hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS, như hành vi giết người (Điều 123), hiếp dâm (ĐIều 141), cướp tài sản (Điều 168),...
Hành vi xâm hại cũng có thể là hành vi không phải tội phạm nhưng có tính chất nguy hiểm cho xã hội đáng kể. Ví dụ: hành vi tấn công của người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 BLHS 2015; hành vi tấn công của người mắc bệnh tâm thần mất hết khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình….
Hành vi xâm hại phải là hành vi đang gây thiệt hại hoặc đang đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần bảo vệ. Hành vi xâm hại là cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng phải là hành vi đang gây thiệt hại hoặc đang đe dọa thực tế gây thiệt hại ngay tức khắc cho những lợi ích được luật hình sự bảo vệ nếu không được ngăn chặn kịp thời.
Hành vi xâm hại chưa xảy ra hoặc chưa đe dọa xảy ra ngay tức khắc cho những lợi ích hợp pháp không làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng. Trong trường hợp một người gây thiệt hại đối với người khác đe dọa sẽ gây thiệt hại trong tương lai được gọi là “phòng vệ quá sớm”. Ví dụ: nghe tin A đã chuẩn bị, sắp đến đánh minh, B đã rủ người đến đánh trước, gây thương tích cho A. Hành vi này không được coi là phòng vệ chính đáng.
Hành vi xâm hại đã kết thúc thì cũng không còn sơ hở để phát sinh quyền phòng vệ. Người có hành vi chống trả gây thiệt hại cho người có hành vi xâm hại các lợi ích hợp pháp khi sự xâm hại đã kết thúc không được coi là chống trả trong khi thực hiện quyền phòng vệ chính đáng. Đây được coi là trường hợp “phòng vệ quá muộn”. Ví dụ: A đã trộm cắp tài sản và bỏ đi, B đuổi theo đánh gây thương tích nặng cho A để lấy lại tài sản mặc dù A chưa có biểu hiện của việc đánh trả.
Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong trường hợp “phòng vệ quá sớm” hoặc “phòng vệ quá muộn”, về nguyên tắc, phải chịu trách nhiệm hình sự về việc gây thiệt hại của mình như những trường hợp bình thường khác.
Hành vi xâm hại có thể chưa gây thiệt hại nhưng đang đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần bảo vệ cũng là cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng. Hành vi đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc có nghĩa là hành vi đe dọa, có thể sử dụng công cụ, phương tiện hoặc không sử dụng công cụ, phương tiện làm cho người khác có căn cứ để tin rằng nếu không chống trả thì liền ngay sự đe dọa, người đe dọa sẽ thực hiện ngay lời đe dọa của mình. Ví dụ: A cầm dao tấn công, giơ súng lên định bắn B….
Được coi là đe dọa gây thiệt hại thực sự cả trong trường hợp người đe dọa sử dụng lựu đạn giả, súng giả với ý thức làm cho người bị đe dọa tin rằng đó là lựu đạn thật, súng thật.
Thứ hai, điều kiện thuộc về hành vi phòng vệ
Hành vi phòng vệ chính đáng không chỉ giới hạn ở việc gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn công mà còn có thể chủ động tích cực chống lại sự xâm hại từ phía người có hành vi xâm hại. Hành vi phòng vệ chính đáng chỉ có thể chống trả, gây thiệt hại cho chính người xâm hại.
Trong phòng vệ chính đáng, khi có cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng, người phòng vệ có quyền chống trả hành vi xâm hại ngay cả khi họ có khả năng lựa chọn biện pháp khác để tránh được thiệt hại do hành vi xâm hại gây ra. Tuy nhiên, đối với trường hợp người tấn công là người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc người không có năng lực trách nhiệm hình sự, thì hành vi chống trả, gây thiệt hại cho người tấn công của người phòng vệ chị được coi là phòng vệ chính đáng nếu đó là biện pháp duy nhất để ngăn chặn sự tấn công gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ.
Hành vi chống trả trong phòng vệ chính đáng phải là chống trả, gây thiệt hại cho chính người có hành vi xâm hại. Điều kiện này xuất phát từ mục đích của phòng vệ chính đáng là ngăn chặn được sự xâm hại, bảo vệ được lợi ích hợp pháp khỏi sự xâm hại của người có hành vi xâm hại nên người có hành vi phòng vệ phải chống trả gây thiệt hại cho người có hành vi xâm hại. Hành vi chống trả gây thiệt hại người khác không phải của người đang có hành vi xâm hại sẽ không được coi là phòng vệ chính đáng.
Hành vi chống trả của người phòng vệ chính đáng phải là hành vi chống trả lại một cách cần thiết, nghĩa là hành vi chống trả phải phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Theo nghị quyết số 02/HĐTP, ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì khi xem xét hành vi chống trả có phải là chống trả một cách cần thiết hay không, có phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại hay không, thì “phải xem xét toàn diện những tình tiết có liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ như: khách thể cần bảo vệ (thí dụ: bảo vệ địa điểm thuộc bí mật quốc gia, bảo vệ tính mạng); mức độ thiệt hại do hành vi xâm hại có thể gây ra hoặc đã gây ra và do hành vi phòng vệ gây ra; vũ khí, phương tiện, phương pháp mà hai bên đã sử dụng; nhân thân của người xâm hại (nam, nữ; tuổi; người xâm hại là côn đồ, lưu manh,...); cường độ của sự tấn công và của sự phòng vệ; hoàn cảnh và nơi xảy ra sự việc (nơi vắng người, nơi đông người, đêm khuya), …. Đồng thời cũng cần phải chú ý đến yếu tố tâm lý của người phải phòng vệ có khi không thể có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn được chính xác phương pháp. phương tiện chống trả thích hợp, nhất là trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ”.
Sau khi đã xem xét một cách đầy đủ, khách quan tất cả các mặt nói trên mà nhận thấy là trong hoàn cảnh sự việc xảy ra, người phòng vệ đã chống trả lại một cách cần thiết, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại thì coi đó là phòng vệ chính đáng.
Đối với việc vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được nêu trên thì luật hình sự Việt Nam đã quy định một số tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là: tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 126); tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 136)....
Công ty Luật TNHH Sao Sáng với đội ngũ luật sư, chuyên viên hỗ trợ pháp lý có nhiều năm kinh nghiệm, chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp những thắc mắc các câu hỏi liên quan đến mọi lĩnh vực, để tư vấn cho Quý khách hàng có những phương hướng tối ưu và hiệu quả. Trân trọng Kính chào!