Công ty luật TNHH Sao Sáng

luatsaosang@gmail.com 0936653636

Thời điểm tội phạm hoàn thành theo Bộ luật hình sự

14:38 CH
Thứ Sáu 20/08/2021
 4237

Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định tại điều luật Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.

Như vậy, nói tội phạm hoàn thành là nói đến tội phạm hoàn thành về mặt pháp lý, nói đến việc hành vi thỏa mãn hết các dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội phạm, chứ không phải hoàn thành về mục đích phạm tội của người phạm tội.

Để xác định trường hợp nào đó là trường hợp tội phạm hoàn thành thì phải xác định được hành vi thực hiện thỏa mãn tất cả các dấu hiệu của cấu thành tội phạm hoàn thành tương ứng được quy định trong bộ luật hình sự.

Ví dụ: cấu thành tội phạm của trường hợp giết người hoàn thành (Điều 123) phải là tổng hợp các dấu hiệu của cấu thành tội phạm, trong đó mặt khách quan của cấu thành tội phạm có dấu hiệu lỗi cố ý giết người (người phạm tội có thái độ mong muốn hoặc để mặc đối với hậu quả chết người). Nếu trên thực tế một người có hành vi cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người mà lỗi của người thực hiện hành vi đối với hậu quả chết người là vô ý, nghĩa là thái độ tâm lý của người đó là không mong muốn và không để mặc cho hậu quả chết người xảy ra mà cho rằng hậu quả chết người không xảy ra hoặc người đó không thấy trước hậu quả chết người xảy ra nhưng buộc phải thấy trước hậu quả đó, thì mặc dù hành vi đã thực hiện có dấu hiệu hậu quả chết người, cũng không thể xác định hành vi đó là trường hợp phạm tội giết người hoàn thành vi hành vi đó chưa thỏa mãn dấu hiệu lỗi cố ý đối với hậu quả chết người. Trong trường hợp này phải xác định hành vi đã thực hiện là cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, vì hành vi đó thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định tại khoản 4 Điều 134 BLHS 2015.

Tương tự như vậy, trong trường hợp một người đã thực hiện hành vi gây thương tích cho người khác nhưng thái độ tâm lý của người đó lại mong muốn cho hậu quả chết người xảy ra (lỗi cố ý trong tội giết người), thì mặc dù hành vi đó có dấu hiệu hậu quả gây thương tích, một dấu hiệu giống dấu hiệu của mặt khách quan của cấu thành tội phạm cố ý gây thương tích hoàn thành mà phải xác định người đó phạm tội giết người chưa đạt vì hành vi đó thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm giết người chưa đạt được quy định tại Điều 123 và Điều 15 BLHS 2015.

Cấu thành tội phạm là khuôn mẫu pháp lý của từng tội phạm. Nhà làm luật trên cơ sở cân nhắc tính chất nguy hiểm cho xã hội, đặc điểm cấu trúc của các hành vi nguy hiểm cho xã hội và yêu cầu đấu tranh chống tội phạm bằng các biện pháp hình sự đã quy định các dấu hiệu pháp lý khác nhau của từng cấu thành tội phạm khác nhau, có những cấu thành tội phạm nhà làm luật quy định dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu của tội phạm (cấu thành tội phạm vật chất), có những cấu thành tội phạm nhà làm luật không quy định dấu hiệu hậu quả mà chỉ quy định dấu hiệu hành vi trong mặt khách quan của tội phạm (cấu thành tội phạm hình thức). Trên cơ sở các quy định về các dấu hiệu pháp lý của từng tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự, người áp dụng pháp luật sẽ đối chiếu hành vi đã thực hiện các dấu hiệu pháp lý của từng cấu thành tội phạm được nhà làm luật quy định trước trong luật hình sự. Nếu thấy hành vi của người phạm tội thỏa mãn hết các dấu hiệu pháp lý của tội phạm cụ thể được quy định tại điều luật cụ thể Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự thì khẳng định được tội phạm đó là tội phạm hoàn thành.

Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc của các loại cấu thành tội phạm, có thể xác định thời điểm tội phạm hoàn thành của các loại tội như sau:

  • Đối với tội phạm có cấu thành vật chất, tội phạm được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội đã gây ra hậu quả tội phạm phù hợp với hậu quả được nêu trong cấu thành tội phạm.

Ví dụ, hành vi phạm tội giết người được coi là tội phạm hoàn thành vào thời điểm gây hậu quả chết người; hành vi trộm cắp tài sản được coi là tội phạm hoàn thành vào thời điểm người phạm tội chiếm đoạt được tài sản.

  • Đối với tội phạm có cấu thành hình thức, tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội thỏa mãn dấu hiệu hành vi phạm tội được quy định tại điều luật Phần các tội phạm của BLHS.

​​​​​​​

Ví dụ, người phạm tội cướp tài sản đã thực hiện hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc (dơ dao dọa đâm, chưa bắn, chưa chiếm đoạt được tài sản thì đã bị bắt giữ. Trong trường hợp này, mặc dù người phạm tội chưa dùng vũ lực, chưa chiếm đoạt được tài sản nhưng hành vi phạm tội của người đó đã được xác định là tội phạm hoàn thành vì đã thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu hành vi của tội cướp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 168 BLHS năm 2015: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản,...”

Cần phân biệt “tội phạm hoàn thành” với “tội phạm kết thúc”. Nói tội phạm hoàn thành là hoàn thành về mặt pháp lý; còn nói đến tội phạm kết thúc là nói đến tội phạm đã thực sự chấm dứt. Thời điểm tội phạm nào đó được coi là tội phạm hoàn thành nhưng có thể vẫn tiếp diễn, chưa kết thúc. Ví dụ: Trong tội cướp tài sản, sau khi dùng vũ lực, người phạm tội mới lấy tài sản và mang đi tiêu thu. Thời điểm người phạm tội dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản thì tội cướp tài sản đã được coi là tội phạm hoàn thành nhưng vào thời điểm đó tội cướp tài sản vẫn chưa kết thúc. Ngược lại, nhiều trường hợp thời điểm tội phạm kết thúc nhưng chưa hoàn thành.

Ví dụ: Một người mới có hành vi chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, hoặc thực hiện hành vi phạm tội chưa đạt thì đã bị bắt giữ.

Việc phân biệt tội phạm hoàn thành với tội phạm kết thúc có ý nghĩa quan trọng.

Xác định tội phạm hoàn thành, phân biệt với các trường hợp tội phạm chưa hoàn thành (trường hợp chuẩn bị phạm tội và trường hợp phạm tội chưa đạt) có ý nghĩa quan trọng để quyết định hình phạt. Với những điều kiện giống nhau, tội phạm hoàn thành phải được coi là nguy hiểm hơn so với các trường hợp tội phạm chưa hoàn thành. Do vậy, cần phải quyết định hình phạt nghiêm khắc hơn đối với người phạm tội hoàn thành so với người phạm tội chưa đạt.

Xác định thời điểm tội phạm kết thúc có ý nghĩa để áp dụng các chế định khác có liên quan, như chế định phòng vệ chính đáng, đồng phạm, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Căn cứ để xác định quyền phòng vệ chính đáng, có đồng phạm, áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong các quy định của BLHS không phải dựa trên cơ sở xác định tội phạm đã hoàn thành hay chưa mà là trên cơ sở xác định tội phạm đã kết thúc hay chưa.

Công ty Luật TNHH Sao Sáng với đội ngũ luật sư, chuyên viên hỗ trợ pháp lý có nhiều năm kinh nghiệm, chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp những thắc mắc các câu hỏi liên quan đến mọi lĩnh vực, để tư vấn cho Quý khách hàng có những phương hướng tối ưu và hiệu quả.

Trân trọng Kính chào!

Bài viết cùng chuyên mục

Bản đồ

Luật sư sẽ liên hệ lại với bạn ngay lập tức khi nhận được lịch

Danh mục

Tin mới

. .