Di sản không phụ thuộc vào di chúc: Ai được hưởng?
Thừa kế là chế định pháp lý quan trọng nhằm dịch chuyển tài sản của người chết theo ý chí của họ (Di chúc) hoặc theo pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi thiết yếu của một số đối tượng đặc biệt, pháp luật quy định một phần di sản nhất định phải dành cho họ, bất kể nội dung di chúc có đề cập hay truất quyền họ. Đây chính là nguyên tắc về Di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
1. Mục đích và ý nghĩa của Điều luật
Điều luật ra đời nhằm mục đích chính là để cân bằng giữa quyền tự định đoạt tài sản cá nhân khi lập di chúc và nguyên tắc bảo đảm trách nhiệm xã hội, đạo đức gia đình.
Cụ thể, điều luật này bảo vệ người yếu thế, đặc biệt là những người chưa thành niên và người không có khả năng lao động, những người có sự phụ thuộc vào người để lại di sản, đồng thời đảm bảo người chết vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đạo đức (nuôi dưỡng, chăm sóc) đối với những người thân yêu nhất của mình, ngay cả sau khi họ qua đời.
2. Đối tượng được hưởng Di sản không phụ thuộc di chúc
Căn cứ tại khoản 1 Điều 644 của BLDS 2015, có các đối tượng được hưởng di sản không phụ thuộc di chúc như sau:
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.”
Quy định tại khoản 1 Điều 644 này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.
- 2.1. Đối tượng là vợ, chồng
Để được xem là người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc, quan hệ vợ và chồng phải được xác lập là hôn nhân hợp pháp tại thời điểm mở thừa kế.
Căn cứ theo khoản 5 Điều 3 và khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về hôn nhân hợp pháp như sau:
“Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch”
Chỉ khi thỏa mãn điều kiện đã đăng ký kết hôn, người còn sống mới được xác định là vợ/chồng hợp pháp và có quyền hưởng phần di sản bắt buộc.
- 2.2. Đối tượng là cha, mẹ
Pháp luật quy định cha, mẹ là người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc xuất phát từ nghĩa vụ và đạo đức xã hội, điều này cũng là cơ sở để đảm bảo quyền lợi của họ theo tinh thần BLDS 2015.
Theo Điều 69 và Điều 70 Luật HNGĐ 2014, cha mẹ có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con cái và ngược lại, con cái có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng, kính trọng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu.
Việc người đã mất không cho cha, mẹ hưởng di sản hoặc hưởng ít hơn phần đáng lẽ được hưởng được xem là hành vi vi phạm nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng đối với các chủ thể này.
- 2.3. Đối tượng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động
Xác định quan hệ con cái: Những người “Con” được pháp luật đề cập bao gồm:
- Con đẻ: Người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản.
- Con nuôi: Người có quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản.
- Ngoài ra, quan hệ con cái cũng có thể phát sinh giữa cha dượng, mẹ kế với con riêng của vợ/chồng, nếu giữa họ có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con theo Điều 654 BLDS 2015.
Cụ thể những đối tượng này được quy định ra sao?
- Về con chưa thành niên: Căn cứ vào khoản 1 Điều 21 BLDS 2015
“Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.”
- Về con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động:
Hiện nay, Bộ luật Dân sự 2015 chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết riêng cho khái niệm 'người không có khả năng lao động' trong lĩnh vực thừa kế. Tuy nhiên, theo nguyên tắc áp dụng pháp luật tương tự (Điều 6 BLDS 2015). Theo đó, “người không có khả năng lao động” được quy định tại tiểu mục 1.4 mục 1 phần II của Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau:
“...người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên)…”
3. Nguyên tắc xác định Suất thừa kế bắt buộc
Những đối tượng thỏa mãn điều kiện nêu trên sẽ được hưởng di sản thừa kế mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc trong trường hợp không được người để lại di chúc cho hưởng di sản hoặc được hưởng nhưng ít hơn phần di sản đáng lẽ được hưởng.
Phần di sản đáng lẽ được hưởng (tức suất hưởng bắt buộc) được pháp luật quy định bằng hai phần ba (2/3) suất thừa kế theo pháp luật. Cụ thể:
- Một suất thừa kế theo pháp luật: Được tính bằng cách lấy Tổng di sản thừa kế chia cho Tổng số người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất.
- Suất hưởng bắt buộc: Bằng 2/3 nhân với một suất thừa kế theo pháp luật đó.
Trên đây là toàn bộ tư vấn của chúng tôi, hy vọng rằng, những ý kiến tư vấn này, sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề mà Quý vị đang quan tâm. Để có thể làm rõ hơn và chi tiết từng vấn đề nêu trên cũng như các vấn đề pháp lý mà quý vị đang cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn. Xin vui lòng liên hệ ngay cho chúng tôi theo địa chỉ email: luatsaosang@gmail.com hoặc qua tổng đài tư vấn: 0936.65.3636 để nhận được sự tư vấn, giải đáp và hỗ trợ từ Luật Sao Sáng. Trân trọng cảm ơn !




