Công ty luật TNHH Sao Sáng

luatsaosang@gmail.com 0936653636

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

14:22 CH
Thứ Sáu 20/08/2021
 1174

Tại Điều 16 Bộ luật hình sự (BLHS) 2015 quy định:

“Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản”.

  • Từ căn cứ trên, có thể rút ra các dấu hiệu của trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội như sau:

Dấu hiệu thứ nhất: Sự chấm dứt việc phạm tội phải xảy ra trong quá trình một người đã có hành vi chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm hoặc đã bắt đầu thực hiện hành vi thực hiện ý định phạm tội nhưng chưa thực hiện được tội phạm đến cùng, nghĩa là hành vi mà người đó thực hiện chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu của một tội phạm cụ thể mà người đó định phạm.

Khi một người đã có hành vi tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm hoặc khi một người đã bắt tay vào việc thực hiện ý định phạm tội nhưng chưa thực hiện được hết những hành vi mà người đó cho là cần thiết để thực hiện tội phạm và tội phạm chưa hoàn thành thì sự chấm dứt việc phạm tội mới có thể được coi là “nửa chừng chấm dứt” việc phạm tội.

Dấu hiệu thứ hai: Việc chấm dứt không tiếp tục thực hiện tội phạm phải là tự nguyện và dứt khoát.

Việc chấm dứt không tiếp tục thực hiện tội phạm phải là tự nguyện, nghĩa là việc chấm dứt hành vi phạm tội hoàn toàn theo ý chí của người phạm tội. Lý do, động cơ dẫn đến việc người thực hiện hành vi quyết định dừng lại không tiếp tục thực hiện tội phạm nữa có thể rất khác nhau, có thể do người thân khuyên bảo, đồng bọn can ngăn, hối hận, thương người bị hại, sợ bị bắt, bị trừng trị….

Về vấn đề này, Nghị quyết số 02-HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 05-01-1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS đã nêu rõ: “Trong thực tế, việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có thể do nhiều nguyên nhân như: hối hận, lo sợ, sợ bị trừng trị, không muốn thực hiện tội phạm đối với người quen biết, …. Do đó, chúng ta không nên đòi hỏi người có hành vi nguy hiểm phải tỉnh ngộ, hối hận mà chỉ cần họ đã thực hiện sự tự nguyện và dứt khoát không thực hiện tội phạm nữa thì được coi là đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”.

Việc chấm dứt không tiếp tục thực hiện tội phạm phải là dứt khoát, nghĩa là phải là sự từ bỏ hẳn ý định phạm tội của người thực hiện hành vi chứ không phải là sự tạm thời dừng lịa để người đó tính toán, tìm cơ hội khác thuận lợi hơn thực hiện tội phạm sau này.

Việc chấm dứt hành vi phạm tội do người thực hiện hành vi tự quyết định trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là dấu hiệu để phân biệt trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội với trường hợp chuẩn bị phạm tội và trường hợp phạm tội chưa đạt. Như đã phân tích, trường hợp chuẩn bị phạm tội (Điều 14) và trường hợp phạm tội chưa đạt (Điều 15) đều có dấu hiệu chung là việc không thực hiện được tội phạm đến cùng (dùng ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc giai đoạn phạm tội chưa đạt) là do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người đó. Còn trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì việc không tiếp tục thực hiện tội phạm là do bản thân người thực hiện hành vi quyết định.

Trong trường hợp một người đã thực hiện những hành vi mà người đó cho là cần thiết để thực hiện tội phạm, để gây ra hậu quả tội phạm, nhưng hậu quả tội phạm chưa xảy ra, tội phạm chưa hoàn thành do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muôn của người đó, thì sau đó mặc dù người ấy lại nhận thức được là vẫn có thể tiếp tục thực hiện tội phạm, gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng đã không tiếp tục thực hiện tội phạm nữa thì cũng không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Vì trước khi người đó chấm dứt việc phạm tội, hành vi mà người đó thực hiện đã ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Trong trường hợp này hậu quả tội phạm chưa xảy ra, tội phạm chưa hoàn thành được là do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người thực hiện hành vi.

Ví dụ: A định giết B, đã chĩa súng vào B, bóp cò súng nhưng đạn không nổ. Sau đó mặc dù súng còn đạn nhưng A đã tự mình từ bỏ ý định, không tiếp tục thực hiện hành vi giết B nữa. Trường hợp này không được coi là trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.

Trong trường hợp một người đã thực hiện được hết những hành vi mà người đó cho là cần thiết để thực hiện tội phạm, để gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng giữa hành vi mà người đó thực hiện với hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi đó gây ra còn có một khoảng thời gian nhất định. Trong khoảng thời gian này, người đó lại có hành động tích cực để ngăn chặn hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra và hậu quả đó đã được ngăn ngừa, tội phạm đã không hoàn thành được, thì được coi là người đó là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, vì trước khi chấm dứt việc phạm tội hành vi mà người đó thực hiện chưa thỏa mãn được tất cả các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể và sự chấm dứt việc phạm tội khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng là do tự bản thân người đó quyết định.

  • Trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

Điều 16 BLHS 2015 quy định: “Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này”.

Với quy định trên, quy định về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là một trong những biện pháp góp phần ngăn chặn những hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Nó cho phép một người có ý định phạm tội, đã chuẩn bị hoặc bắt tay vào việc thực hiện tội phạm, vẫn có khả năng lựa chọn cách xử sự của mình: một là, tiếp tục thực hiện tội phạm đến cùng thì có thể sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự; hai là, tự mình chấm dứt việc phạm tội thì sẽ được hưởng khoan hồng, không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong nhiều trường hợp, một người có hành vi nguy hiểm cho xã hội đã lựa chọn cách xử sự thứ hai và điều đó rõ ràng đã góp phần hạn chế bớt những thiệt hại nguy hiểm có thể xảy ra cho xã hội.

Theo quy định tại Điều 16 BLHS 2015, người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm. Ví dụ: người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội giết người thì được miễn trách nhiệm hình sự về tội giết người.

Nếu hành vi của người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đã thực hiện thỏa mãn các dấu hiệu của một tội phạm khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Ví dụ: một người có ý định giết người đã dùng dao chém gây thương tích người khác, sau đó tự ý nửa chừng chấm dứt việc giết người thì người đó được miễn trách nhiệm hình sự về tội giết người nhưng tùy tỷ lệ thương tật gây ra, người đó có thể phải chịu trách nhiệm về tội cố ý gây thương tích theo quy định pháp luật.

Nếu một người mua một khẩu súng quân dụng để chuẩn bị đi cướp tài sản, sau đó lại tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì được miễn trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản nhưng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép vũ khí quân dụng theo quy định.

Công ty Luật TNHH Sao Sáng với đội ngũ luật sư, chuyên viên hỗ trợ pháp lý có nhiều năm kinh nghiệm, chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp những thắc mắc các câu hỏi liên quan đến mọi lĩnh vực, để tư vấn cho Quý khách hàng có những phương hướng tối ưu và hiệu quả.

Trân trọng Kính chào!

Bài viết cùng chuyên mục

Bản đồ

Luật sư sẽ liên hệ lại với bạn ngay lập tức khi nhận được lịch

Danh mục

Tin mới

. .